TRÒ “ĐẠO THI” CỦA TỤI THI NHÂN TÀU
Trong kho tàng văn học An Nam, có một dòng văn học cao sang, tuyệt 108 cái vời, nhưng ít được biết tới, là thơ văn chữ Hán. Vì ít được quan tâm nên thơ chữ Hán của An Nam đã bị lũ thi nhân Đại Hán ăn cắp từ lâu, nhưng ta cứ làm lơ để mặc chúng khai thác. Thớt này nhằm đòi công đạo, lấy lại bản quyền một số bài thơ của ta đã bị Tàu ăn cắp trắng trợn.
✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️
1- THƠ HAI CON NGỖNG CỦA ĐỖ PHÁP THUẬN
1- THƠ HAI CON NGỖNG CỦA ĐỖ PHÁP THUẬN
Thiền sư Pháp Thuận (914-990) là quốc sư đầu tiên của An Nam. Nổi tiếng học rộng thơ hay, lại có tài kinh bang tế thế, sư tham chính và được Lê Hoàn trọng vọng, giao cho việc soạn thảo văn thư.
Công lao lớn nhất của sư là đã làm sứ Tàu phải bái phục sát háng. Đó là chuyện xảy ra vào năm 987, được ghi nhận bởi “Đại Việt Sử ký Toàn thư” (Kỷ nhà Lê - Đại Hành hoàng đế):
“Nhà Tống lại sai Lý Giác sang. Khi Giác đến chùa Sách Giang, vua sai pháp sư tên là Thuận, giả làm người coi sông ra đón. Giác rất thích nói chuyện văn thơ. Lúc ấy nhân có hai con ngỗng lội trên mặt nước, Giác vui ngâm rằng:
鵝鵝兩鵝鵝 Nga nga lưỡng nga nga
仰面向天涯 Ngưỡng diện hướng thiên nha
仰面向天涯 Ngưỡng diện hướng thiên nha
(Ngỗng ngỗng hai con ngỗng; Ngửa mặt ngóng chân trời).
“Pháp sư đương cầm chèo, theo vần làm nối đưa cho Giác xem:
白毛鋪綠水 Bạch mao phô lục thủy
紅棹擺青波 Hồng trạo bãi thanh ba
紅棹擺青波 Hồng trạo bãi thanh ba
(Nước lục phô lông trắng; Sóng xanh ngoáy chèo hồng)”.
Bài thơ này tài tình ở chỗ triển khai hình tượng con ngỗng thành ra cả bao la sóng xanh nước biếc, mà lại ngắn gọn, chỉ vỏn vẹn hai chục chữ.
Tác quyền bài thơ đã được quốc sử ghi nhận hết cãi: là của Đỗ Pháp Thuận. Đã vậy, sự tích trên còn được chép vô “Thiền uyển tập anh”, là tài liệu Phật giáo cổ nhất của An Nam; tới đầu thế kỷ này lại được học giả Bắc Việt khẳng định lần nữa, bằng cách đưa vô “Giáo trình Hán văn Lý-Trần”[*]. Vậy mà bài thơ vẫn bị ăn cắp, bởi Lạc Tân Vương.
Lạc Tân Vương 駱賓王 (640-684) là một trong “Sơ Đường tứ kiệt”, tên mất dạy này sinh trước quốc sư Pháp Thuận 274 năm. Mới bảy tuổi, nhờ ăn cắp bài thơ này mà Vương nức tiếng thần đồng. Không chỉ ăn cắp, hắn còn sửa vài chỗ, thành ra như vầy:
《詠鵝》 VỊNH NGA
鵝鵝鵝 Nga nga nga
曲項向天歌 Khúc hạng hướng thiên ca
白毛浮綠水 Bạch mao phù lục thủy
紅掌撥清波 Hồng chưởng bát thanh ba
鵝鵝鵝 Nga nga nga
曲項向天歌 Khúc hạng hướng thiên ca
白毛浮綠水 Bạch mao phù lục thủy
紅掌撥清波 Hồng chưởng bát thanh ba
(VỊNH NGỖNG
Nga nga nga
Cổ cong rướn lên trời kêu
Lông trắng nổi trên nước xanh
Chân hồng quẫy làn sóng trong).
Nga nga nga
Cổ cong rướn lên trời kêu
Lông trắng nổi trên nước xanh
Chân hồng quẫy làn sóng trong).
Mắc ứa nhứt là câu đầu, Vương viết 3 chữ “Nga”, khiến chữ đó thành ra từ tượng thanh, tả tiếng ngỗng kêu. Còn bài của Pháp Thuận, thần tình ở chỗ mở đầu bằng hai con ngỗng, và rốt cục chỉ còn một con. Vậy chớ con kia đi đâu? Thưa rằng: đã chui vô bụng Pháp Thuận và Lý Giác.
Số là sau khi mần thơ xong, tự thấy mình hay quá sá, nên sư và sứ bèn bắt một con ngỗng làm món rô-ti, tự thưởng tài hoa. Đó là ngỗng mái, bao nhiêu chất béo tinh túy đều tụ lại ở phao câu. Hai đứa không nỡ phí phạm của trời đớp lần một, bèn chuyền nhau mút cho hả cái thơm cái béo của càn khôn, vậy đó cũng bay vèo 3 xị rượu nếp Nga Sơn.
[*] “Giáo trình Hán văn Lý-Trần”, Phạm Văn Khoái soạn, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội 2001.
✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️
2- BÀI “NGƯ NHÀN” CỦA DƯƠNG KHÔNG LỘ
2- BÀI “NGƯ NHÀN” CỦA DƯƠNG KHÔNG LỘ
Dương Không Lộ (1016-1094) là quốc sư triều Lý. Bài “Ngư nhàn” của sư được Phật giáo Việt Nam đánh giá tuyệt tác thơ Thiền đời Lý-Trần. Vết tích sớm nhất về bài này là trong tuyển tập Toàn Việt thi lục 全越詩錄 của Lê Quý Đôn (1726-1784), nguyên văn như sau:
《漁閒》 NGƯ NHÀN
萬里清江萬里天 Vạn lý thanh giang vạn lý thiên
一村桑柘一村煙 Nhất thôn tang giá nhất thôn yên
漁翁睡著無人喚 Ngư ông thụy trước vô nhân hoán
過午醒來雪滿船 Quá ngọ tỉnh lai tuyết mãn thuyền
萬里清江萬里天 Vạn lý thanh giang vạn lý thiên
一村桑柘一村煙 Nhất thôn tang giá nhất thôn yên
漁翁睡著無人喚 Ngư ông thụy trước vô nhân hoán
過午醒來雪滿船 Quá ngọ tỉnh lai tuyết mãn thuyền
(NHÀ CHÀI RẢNH RỖI
Sông trong muôn dặm, trời muôn dặm
Một làng trồng dâu gai, làng [ẩn trong] khói mây
Ông chài ngủ say, không ai kêu dậy
Quá trưa thức giấc thì tuyết đã đầy thuyền).
Sông trong muôn dặm, trời muôn dặm
Một làng trồng dâu gai, làng [ẩn trong] khói mây
Ông chài ngủ say, không ai kêu dậy
Quá trưa thức giấc thì tuyết đã đầy thuyền).
Bài thơ này cũng bị ăn cắp bởi Hàn Ác 韓偓 (844-923) đời Đường. Ác sinh trước Không Lộ khoảng 200 năm, là tiến sĩ xuất thân. Tên này có anh ruột là Hàn Nghi 韓儀, dượng rể là Lý Thương Ẩn 李商隱, cùng có tên trong “Toàn Đường thi”. Về hoạn lộ, Ác từng làm đến Binh bộ Thị lang, Hàn lâm Thừa chỉ; sau bị biếm ra đất Thục. Cuối đời, Ác ở nhờ chùa Diên Phúc trên Cửu Nhật sơn (nay thuộc Tuyền Châu, tỉnh Phúc Kiến); qua đời trong chùa Long Hưng (Phong châu, Phúc Kiến). Vậy mà hắn lại đang tâm ăn cắp thơ của thầy chùa Không Lộ.
Hành vi đạo thi của tên này cực kỳ trơ trẽn: chép lại y chang nguyên bài, chỉ đổi nhan đề thành “Túy trước” 醉著 (Thơ làm lúc say), được đưa vào tuyển tập “Đường âm thống thiêm” 唐音統簽 của Hồ Chấn Hanh 胡震亨 (1569-1645).
✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️
3- BÀI KỆ “HƯU HƯỚNG NHƯ LAI” CỦA NGUYỄN QUẢNG NGHIÊM:
3- BÀI KỆ “HƯU HƯỚNG NHƯ LAI” CỦA NGUYỄN QUẢNG NGHIÊM:
Quảng Nghiêm thiền sư (1121-1191) chùa Thánh Ân (huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh), là cao tăng Đại Việt. Sư chỉ lưu lại một bài kệ duy nhất, được chép trong “Thiền uyển tập anh” 禪苑集英, do Thông Biện thiền sư (?-1134) soạn:
《休向如來》 HƯU HƯỚNG NHƯ LAI
離寂方言寂滅去 Ly tịch phương ngôn tịch diệt khứ
生無生后說無生 Sinh vô sinh hậu thuyết vô sinh
男兒自有沖天志 Nam nhi tự hữu xung thiên chí
休向如來行處行 Hưu hương Như Lai hành xứ hành
離寂方言寂滅去 Ly tịch phương ngôn tịch diệt khứ
生無生后說無生 Sinh vô sinh hậu thuyết vô sinh
男兒自有沖天志 Nam nhi tự hữu xung thiên chí
休向如來行處行 Hưu hương Như Lai hành xứ hành
(ĐỪNG THEO GÓT NHƯ LAI
Có lìa xa được cõi tịch[1] mới có thể nói tới tịch diệt[2]
Sinh vào cõi vô sinh mới bàn thấu vô sinh[3]
Làm trai phải có chí xông lên trời cao
Há chịu lẽo đẽo theo vết Như Lai).
Có lìa xa được cõi tịch[1] mới có thể nói tới tịch diệt[2]
Sinh vào cõi vô sinh mới bàn thấu vô sinh[3]
Làm trai phải có chí xông lên trời cao
Há chịu lẽo đẽo theo vết Như Lai).
Hai câu kết bài này tạo ấn tượng mạnh, ở chỗ siêu việt cả Phật tổ, nên đã bị một thầy chùa bên Tàu ăn cắp.
Số là trên núi Phụng Tê 鳳棲 ở huyện Đồng An tỉnh Phúc Kiến, có ngôi chùa Đồng An. Chùa này nổi danh nhờ thời Ngũ đại Thập quốc (907-979) có sư trụ trì pháp hiệu Thường Sát 常察, được cho là thánh tăng.
Dè đâu, Thường Sát chỉ cạo đầu mà không cạo lông nách, đã xuất hồn lãng đãng xuyên không tới trăm năm sau, ăn cắp hai câu nói trên, để làm kết cho bài thứ tư trong chùm kệ “Đồng An Sát thiền sư Thập huyền đàm” 同安察禪師十玄談. Bài thuyết pháp này sau được đưa vào “Cảnh Đức truyền đăng lục” 景德傳燈錄, bộ sử Thiền tông Trung Hoa (hoàn thành năm 1004).
Bài kệ của Thường Sát như vầy:
《塵異》 TRẦN DỊ
濁者自濁清者清 Trọc giả tự trọc, thanh giả thanh
菩提煩惱等空平 Bồ đề phiền não đẳng không bình
誰言卞璧無人鑒 Thùy ngôn Biện bích vô nhân giám
我道驪珠到處晶 Ngã đạo Ly châu đáo xứ tinh
萬法泯時全體現 Vạn pháp mẫn thời toàn thể hiện
三乘分別強安名 Tam thừa phân biệt cưỡng an danh
丈夫皆有沖天志 Trượng phu tự hữu xung thiên chí
莫向如來行處行 Mạc hướng Như Lai hành xứ hành
濁者自濁清者清 Trọc giả tự trọc, thanh giả thanh
菩提煩惱等空平 Bồ đề phiền não đẳng không bình
誰言卞璧無人鑒 Thùy ngôn Biện bích vô nhân giám
我道驪珠到處晶 Ngã đạo Ly châu đáo xứ tinh
萬法泯時全體現 Vạn pháp mẫn thời toàn thể hiện
三乘分別強安名 Tam thừa phân biệt cưỡng an danh
丈夫皆有沖天志 Trượng phu tự hữu xung thiên chí
莫向如來行處行 Mạc hướng Như Lai hành xứ hành
(KHÁC BIỆT TRONG CÕI TRẦN
Người đục cứ đục, người trong cứ trong
Bồ đề và phiền não đều như nhau
Ai nói ngọc Biện Hòa không người kiểm định?
Ta bảo viên Ly châu[4] chiếu sáng khắp nơi
Thời loạn lạc thì muôn pháp càng hiển lộ
Ba thừa[5] chia nhau tận lực vỗ yên mọi người
Đấng trượng phu phải có chí xông lên trời cao
Đừng thèm lẽo đẽo theo vết Như Lai).
Người đục cứ đục, người trong cứ trong
Bồ đề và phiền não đều như nhau
Ai nói ngọc Biện Hòa không người kiểm định?
Ta bảo viên Ly châu[4] chiếu sáng khắp nơi
Thời loạn lạc thì muôn pháp càng hiển lộ
Ba thừa[5] chia nhau tận lực vỗ yên mọi người
Đấng trượng phu phải có chí xông lên trời cao
Đừng thèm lẽo đẽo theo vết Như Lai).
[1] Cõi tịch: tức Niết bàn.
[2] Tịch diệt: nhập Niết bàn.
[3] Vô sinh: thoát vòng luân hồi.
[4] Ly châu 驪珠: Ly 驪 là con ngựa ô. “Ly châu” là tên viên ngọc quý trên yết hầu con rồng đen trong tích xưa.
[5] Tam thừa 三乘: ba cỗ xe. Theo kinh Diệu pháp Liên hoa, Phật tùy căn cơ chúng sinh mà truyền Thanh văn thừa, Độc giác thừa, hoặc Bồ tát thừa để phổ độ chánh pháp.
[2] Tịch diệt: nhập Niết bàn.
[3] Vô sinh: thoát vòng luân hồi.
[4] Ly châu 驪珠: Ly 驪 là con ngựa ô. “Ly châu” là tên viên ngọc quý trên yết hầu con rồng đen trong tích xưa.
[5] Tam thừa 三乘: ba cỗ xe. Theo kinh Diệu pháp Liên hoa, Phật tùy căn cơ chúng sinh mà truyền Thanh văn thừa, Độc giác thừa, hoặc Bồ tát thừa để phổ độ chánh pháp.
✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️
4- “CƯ TRẦN LẠC ĐẠO” CỦA TRẦN KHÂM
4- “CƯ TRẦN LẠC ĐẠO” CỦA TRẦN KHÂM
Trần Khâm (1279-1293) là vị vua thứ 3 triều Trần xứ Đại Việt. Lúc đi tu lấy pháp danh “Hương Vân đại đầu đà”, lại có đạo hiệu “Trúc Lâm đại sĩ”, “Giác hoàng Điều ngự”. Chừng về Tây thiên được phong nick name Trần Nhân tôn. Khâm là tỵ tổ sáng lập dòng thiền Trúc lâm. Tổ có bài thơ vang danh thiên hạ:
《居塵樂道》 CƯ TRẦN LẠC ĐẠO
居塵樂道且隨緣 Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
饑則飧兮困則眠 Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
家中有寶休尋覓 Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
對境無心莫問禪 Ðối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền
居塵樂道且隨緣 Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
饑則飧兮困則眠 Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
家中有寶休尋覓 Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
對境無心莫問禪 Ðối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền
(Sống trên đời nên tùy duyên mà vui với đạo
Đói thì ăn, mệt thì ngủ
Trong nhà có sẵn của báu, chớ tìm đâu xa
Trước cảnh vật chỉ cần giữ tâm không, chớ có hỏi về Thiền).
Đói thì ăn, mệt thì ngủ
Trong nhà có sẵn của báu, chớ tìm đâu xa
Trước cảnh vật chỉ cần giữ tâm không, chớ có hỏi về Thiền).
Bài thơ xuất sắc này cũng bị một tên đạo sĩ thúi, sinh trước tổ Khâm khoảng 480 năm, là Lữ Động Tân 呂洞賓 (796-?) chôm hai câu kết về Tàu, đề lên trên vách gác chuông của chùa Quy Tông dưới chân Lư sơn tỉnh Giang Tây:
一日清閒自在仙 Nhất nhật thanh nhàn tự tại tiên
六神和合報平安 Lục thần hòa hợp báo bình yên
丹田有寶休尋道 Đan điền hữu bảo hưu tầm đạo
對境無心莫問禪 Ðối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền.
六神和合報平安 Lục thần hòa hợp báo bình yên
丹田有寶休尋道 Đan điền hữu bảo hưu tầm đạo
對境無心莫問禪 Ðối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền.
(Có được một ngày rảnh rỗi tự tại thì là tiên
Lục thần[*] mà hòa hợp thì sẽ khỏe mạnh bình yên
Ở huyệt Đan điền có kho báu, khỏi cần đi cầu đạo
Trước cảnh vật chỉ cần giữ tâm không, khỏi hỏi về Thiền).
Lục thần[*] mà hòa hợp thì sẽ khỏe mạnh bình yên
Ở huyệt Đan điền có kho báu, khỏi cần đi cầu đạo
Trước cảnh vật chỉ cần giữ tâm không, khỏi hỏi về Thiền).
Đểu nhất là Tân sửa bài thơ đầy ý vị thiền thành ra thơ dạy phép nạp khí cơ bản cho tụi đạo sĩ.
[*] Lục thần: tức Lục căn - gồm tai, mắt, mũi, lưỡi, thân và ý.
✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️
5- “XUÂN NHẬT TỨC SỰ” CỦA HUYỀN QUANG:
5- “XUÂN NHẬT TỨC SỰ” CỦA HUYỀN QUANG:
Sư Huyền Quang (1254-1334), tục danh Lý Đạo Tái, Thị giả của Giác hoàng Điều ngự Trần Khâm, và là Tổ thứ 3 dòng Thiền Trúc Lâm. Ngài là thi sĩ vĩ đại nhứt trong các thiền sư Đại Việt. Bài thơ nổi tiếng của ngài là:
春日即事 XUÂN NHẬT TỨC SỰ
二八佳人刺繡遲 Nhị bát giai nhân thích tú trì
紫荊花下轉黃鸝 Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly
可憐無限傷春意 Khả liên vô hạn thương xuân ý
盡在停針不語時 Tận tại đình châm bất ngữ thì
二八佳人刺繡遲 Nhị bát giai nhân thích tú trì
紫荊花下轉黃鸝 Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly
可憐無限傷春意 Khả liên vô hạn thương xuân ý
盡在停針不語時 Tận tại đình châm bất ngữ thì
(Người đẹp vừa đôi tám thong thả ngồi thêu gấm
Oanh vàng nhảy nhót bên hoa tử kinh
Đáng thương ý vị mùa xuân kia bị làm đau xót vô hạn
Tất cả ngưng đọng lại lúc nàng lặng yên ngừng kim thêu).
Oanh vàng nhảy nhót bên hoa tử kinh
Đáng thương ý vị mùa xuân kia bị làm đau xót vô hạn
Tất cả ngưng đọng lại lúc nàng lặng yên ngừng kim thêu).
Đây là bài thơ thiền tuyệt tác. Vẻ đẹp của cô gái tơ tươi mởn làm ý xuân lan tràn khắp không gian, để rồi thoắt đọng lại trong một sát na thiền định xuất thần.
Nó cũng bị một thầy chùa Nam Tống là Trung Nhân thiền sư 中仁禪師, sinh trước Huyền Quang tôn giả cả trăm năm, trộm luôn nguyên xi, đem đề lên vách Trung Thiên Trúc tự 中天竺寺 (sau đổi thành Pháp Tịnh tự 法净寺) ở Lâm An (Hàng châu). Sự kiện này xảy ra vào đời Triệu Thận 趙昚 (tức Tống Hiếu tôn, tại vị 1162- 1189).
✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️
6- BÀI THƠ “BA TIÊU” CỦA NGUYỄN TRÃI
6- BÀI THƠ “BA TIÊU” CỦA NGUYỄN TRÃI
Nguyễn Trãi (1380-1442) là bậc công lớn thành thần của nhà hậu Lê, được phong thánh UNESCO. Ông là nhà thơ cổ đại duy nhất của An Nam mần thơ vịnh chuối:
BA TIÊU
Tự bén hơi xuân, tốt lại thêm
Đầy buồng lạ, mầu thâu đêm
Tình thư một bức phong còn kín
Gió nơi đâu gượng mở xem
Tự bén hơi xuân, tốt lại thêm
Đầy buồng lạ, mầu thâu đêm
Tình thư một bức phong còn kín
Gió nơi đâu gượng mở xem
Bài thơ Nôm tuyệt tác này được Tiền Hử 錢珝 thời Vãn Đường, sống trước Trãi hơn 500 năm, đổi nhan đề và dịch ra tiếng Tàu, đặng nhận làm của mình:
《未展芭蕉》 VỊ TRIỂN BA TIÊU
冷燭無煙綠蠟幹 Lãnh chúc vô yên lục lạp can
芳心猶卷怯春寒 Phương tâm do quyển khiếp xuân hàn
一緘書劄藏何事 Nhất giam thư tráp tàng hà sự
會被東風暗拆看 Hội bị đông phong ám sách khan
冷燭無煙綠蠟幹 Lãnh chúc vô yên lục lạp can
芳心猶卷怯春寒 Phương tâm do quyển khiếp xuân hàn
一緘書劄藏何事 Nhất giam thư tráp tàng hà sự
會被東風暗拆看 Hội bị đông phong ám sách khan
Tạm dịch: CÂY CHUỐI NON CHƯA TRỔ
([Thân chuối như] ngọn đuốc lạnh không có khói, [lá chuối như] ngọn nến màu xanh
Tấm lòng thơm thảo bởi sợ cái lạnh mùa xuân nên cuộn lại
Một phong thư đó chất chứa những gì
Coi chừng sẽ bị gió xuân lén mở ra xem)[*]
([Thân chuối như] ngọn đuốc lạnh không có khói, [lá chuối như] ngọn nến màu xanh
Tấm lòng thơm thảo bởi sợ cái lạnh mùa xuân nên cuộn lại
Một phong thư đó chất chứa những gì
Coi chừng sẽ bị gió xuân lén mở ra xem)[*]
[*] Có thể xem thêm vụ này ở đây:
https://www.facebook.com/vinhhuy.le.967/posts/103780093984348
https://www.facebook.com/vinhhuy.le.967/posts/103780093984348
✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️
7- BÀI CA DAO “CÀY ĐỒNG ĐANG BUỔI BAN TRƯA”:
7- BÀI CA DAO “CÀY ĐỒNG ĐANG BUỔI BAN TRƯA”:
Đây là bài ca lao động của nông dân Việt Nam, chứa chan tình nghĩa ruộng đồng:
Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần
Mê nó quá, Lý Thân 李紳 (772-846) đời Đường lượm lấy, chuyển ngữ và nhận làm của riêng:
《憫農》 MẪN NÔNG
鋤禾日當午 Sừ hòa nhật đương ngọ
汗滴禾下土 Hãn trích hòa hạ thổ
誰知盤中飧 Thùy tri bàn trung xan
粒粒皆辛苦 Lạp lạp giai tân khổ
鋤禾日當午 Sừ hòa nhật đương ngọ
汗滴禾下土 Hãn trích hòa hạ thổ
誰知盤中飧 Thùy tri bàn trung xan
粒粒皆辛苦 Lạp lạp giai tân khổ
(THƯƠNG CẢNH NHÀ NÔNG
Cày ruộng lúc buổi trưa
Mồ hôi nhỏ giọt xuống đất dưới chân cây lúa
Ai có biết chén cơm đặt trên mâm
Mỗi hạt bao nhiêu cực khổ?)
Cày ruộng lúc buổi trưa
Mồ hôi nhỏ giọt xuống đất dưới chân cây lúa
Ai có biết chén cơm đặt trên mâm
Mỗi hạt bao nhiêu cực khổ?)
✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️✌️
8- BÀI THƠ TẶNG TRẦN CANH CỦA HỒ CHÍ MINH
8- BÀI THƠ TẶNG TRẦN CANH CỦA HỒ CHÍ MINH
Tưởng tụi Tàu chỉ ăn cắp thơ cổ thôi, ai dè thơ hiện đại chúng cũng không tha. Càng bự gan hơn, chúng chôm luôn thơ lãnh tụ.
Số là chủ tịch Hồ Chí Minh có bạn vong niên người Tàu, tên Trần Canh (1903-1961). Đôi bên quen biết nhau từ thời Nguyễn Ái Quốc lấy tên Lý Thụy, tháp tùng đoàn cố vấn Liên-xô tới Quảng Châu, với danh nghĩa giúp chính phủ Trung Hoa Dân quốc (1924-1927). Lúc đó, Trần Canh là học viên trường Quân sự Hoàng Phố.
Phần tư thế kỷ sau, vào tháng 7-1950, Canh dẫn đầu đoàn Cố vấn quân sự Trung cộng sang giúp Quân đội Nhân dân Việt Nam đánh Pháp. Minh bèn mần bài thơ:
《贈陳賡同志》 TẶNG TRẦN CANH ĐỒNG CHÍ
香檳美酒夜光杯 Hương tân mỹ tửu dạ quang bôi
欲飲琵琶馬上催 Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
醉臥沙場君莫笑 Túy ngoạ sa trường quân mạc tiếu
敵人休放一人回 Địch nhân hưu phóng nhất nhân hồi
香檳美酒夜光杯 Hương tân mỹ tửu dạ quang bôi
欲飲琵琶馬上催 Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
醉臥沙場君莫笑 Túy ngoạ sa trường quân mạc tiếu
敵人休放一人回 Địch nhân hưu phóng nhất nhân hồi
(Bản dịch của Phan Văn Các:
“Sâm banh” rượu ngọt chén lưu ly
Toan nhấp, tỳ bà giục ngựa đi
Say khướt sa trường cười chớ vội
Chẳng cho địch thoát một tên về)[*]
“Sâm banh” rượu ngọt chén lưu ly
Toan nhấp, tỳ bà giục ngựa đi
Say khướt sa trường cười chớ vội
Chẳng cho địch thoát một tên về)[*]
Vậy mà trước đó cả ngàn mấy trăm năm, tên khốn Vương Hàn (687-735), nhà thơ biên tái đời Đường, cũng ráng ăn cắp và sửa cho được:
《涼州詞》 LƯƠNG CHÂU TỪ
葡萄美酒夜光杯 Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
欲飲琵琶馬上催 Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
醉臥沙場君莫笑 Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
古來征戰幾人回 Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi
葡萄美酒夜光杯 Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
欲飲琵琶馬上催 Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
醉臥沙場君莫笑 Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
古來征戰幾人回 Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi
(Rượu bồ đào đựng trong chén ngọc dạ quang
Vừa tính nhấp thì đàn tỳ bà giục ngựa đi
Say nằm giữa sa trường, xin người chớ cười
Xưa nay chinh chiến mấy ai về).
Vừa tính nhấp thì đàn tỳ bà giục ngựa đi
Say nằm giữa sa trường, xin người chớ cười
Xưa nay chinh chiến mấy ai về).
[*] “Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh”, Nxb Văn học, Hà Nội, 1990, tr. 39-40).
* * *
Đại Việt ta có 4.000 năm văn hiến, là siêu cường quốc thơ. Ở xứ này, không chỉ nhà thơ mới biết mần thơ, mà tuốt trên xuống dưới, từ chủ tịch bí thư tới phụ hồ vịt lộn, ai cũng có tài phun vần khạc điệu.
Thơ ta vì thế thường bị thế giới, nhất là tụi Tàu, dòm ngó. Số lượng thơ của ta bị Tàu ăn cắp không chỉ mấy bài trong thớt, chắc chắn phải còn nhiều trường hợp khác. Bọn mọi rợ chó má phương Bắc này lại cực kỳ gian ngoan thâm độc. Thói thường, muốn đạo thi, người ta thường chỉ trộm thơ của người thời trước, hoặc liều mạng hơn thì lấy của người cùng thời; riêng tụi Tàu tinh vi, chuyên môn ăn cắp thơ của đời sau, nên đương thời vô phương phát hiện.
Vinhhuy Le
(Đêm Nguyên tiêu 2019)
(Đêm Nguyên tiêu 2019)
Comments
Post a Comment